Tim kiem nang cao tren
gogle:" van hoa viet nam"
nam OR 2010 "van hoa gia lai" –
http://www.cinet.gov.vn/chuyendeVH/congchieng/taynguyen.htm
Lễ đón nhận bằng Không gian văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên là Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại sẽ được
tổ chức trang trọng vào tối 28/3 tới tại TP Pleiku - Gia Lai. Đây cũng
chính là tâm điểm của Liên hoan Cồng chiêng chào mừng đại hội đại đoàn kết các
dân tộc Tây Nguyên (28-29/3).
Bộ Văn hóa - Thông tin đã
chỉ đạo Viện Văn hoá – Thông tin chủ trì tổ chức Lễ đón nhận sự kiện văn hoá
quan trọng này. Theo đó, Cục Văn hoá Thông tin Cơ sở sẽ chỉ đạo tổ chức các
hoạt động liên quan trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên; đồng thời chủ trì tổ chức
đêm liên hoan giao lưu văn hoá cồng chiêng mừng thành công của Đại hội Đại đoàn
kết các dân tộc Tây Nguyên tại công viên Diên Hồng, thành phố Pleiku. Trung tâm
Triển lãm Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam có trách nhiệm phối hợp với Cục Văn hoá –
Thông tin cơ sở tổ chức các hoạt động triển lãm tại trung tâm văn hoá - thể
thao thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên. Kịch bản của buổi
lễ đón nhận bằng Di sản sẽ do Viện Văn hoá thông tin đảm nhiệm.
Cùng với lễ
đón nhận bằng vào đêm 28/3, các hoạt động đáng chú ý
khác là Giao lưu văn hoá cồng chiêng, Triển lãm về đặc trưng văn hoá và thành
tựu đổi mới của Tây Nguyên, Tuần lễ phim Việt Nam, dựng bia ghi thư của Bác Hồ
gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku năm 1946. Cục Điện Ảnh sẽ
chủ trì Tuần phim Việt Nam, với các phim như Đất nước đứng lên, Hồn chiêng,
Tiếng cồng định mệnh...
Diễn ra trên
khắp TP. Pleiku trong khoảng một tuần vào trung tuần tháng 3, liên hoan cồng
chiêng sẽ tạo nên một không gian thấm đẫm chất lửa truyền thống Tây Nguyên.
Cồng chiêng sẽ được chính các nghệ nhân dân tộc trình diễn với các giai điệu
gốc. 15 đội cồng chiêng của 5 tỉnh Tây Nguyên sẽ diễn tấu các giai điệu xoay
quanh chu kỳ vòng đời của con người, chu kỳ một năm sản xuất... Đội ngũ nghệ
nhân cao tuổi - những người ít ỏi còn lại đang nắm giữ các bí quyết và làn điệu
cồng chiêng truyền thống - sẽ là nhân tố nắm giữ linh hồn của những buổi trình
diễn này.
Liên hoan Cồng
chiêng cũng là cơ hội để những chủ nhân đích thực của Không gian văn hoá này
thể hiện niềm tự hào của mình trước cả nhân loại. Không có nhiều yếu tố cải
biên như cồng chiêng ở các lễ hội khác; ở đây, những giá trị gốc, cổ truyền
được tôn vinh.
Tổ chức UNESCO
đã công nhận cồng chiêng Tây Nguyên là "Di sản văn hóa phi vật thể và
truyền khẩu nhân loại". Đây là niềm tự hào không chỉ của riêng vùng đất
Tây Nguyên mà còn là niềm tự hào của nền văn hóa Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội
hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện để gìn giữ vốn văn hóa truyền
thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
|
Ngày 8/1 vừa qua, Thứ trưởng Bộ VHTT Đặng Quang Ngữ đã có
buổi làm việc với Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, ông Phạm Thế Dũng quyết định sẽ
tổ chức lễ công bố Bằng công nhận của UNESCO về không gian văn hoá cồng chiêng
Tây Nguyên là di sản phi vật thể của nhân loại tại TP.Pleiku (Gia Lai) vào
tháng 3/2006. Đây thực sự là một tin vui đối với các đồng bào dân tộc Tây
Nguyên. Tuy nhiên, một thực tế đang làm mọi người lo lắng đó là hồn thiêng của
tiếng chiêng đang dần mất đi theo năm tháng.
Tuy nhiên hiện
nay có một vấn đề đang làm cho các nhà khoa học lo lắng đó là không gian và hồn
thiêng trong tiếng cồng đang ngày một dần mất đi. Điều đáng quan tâm hiện nay
là, ở lớp người trẻ tuổi, không những đơn giản hóa những quan niệm về chiêng
cồng mà khả năng tiếp thu để diễn tấu các bài bản chiêng của họ cũng rất hạn
chế. Trong cộng đồng Mạ, Cơho ở Lâm Đồng, nhiều nghệ nhân trẻ không thể nhớ hết
nổi "36 điệu chiêng" của ông bà họ để lại. Cũng như vậy, ở cộng đồng
Mnông tỉnh Đăk Lăk, vẫn có những người không thể phân biệt đâu là bài bản
chiêng dùng trong lễ phát rẫy, lễ phơi rẫy, lễ xuống giống và đâu là bài bản
chiêng trong lễ tạ ơn rìu rựa, lễ tắm lúa, lễ cúng bến nước…
Nguy hiểm hơn,
xu thế mất dần tính thiêng của chiêng cồng Tây Nguyên còn được thể hiện ở chỗ:
Ngày nay, nhiều người đã tỏ ra rất tùy tiện trong việc sử dụng các bộ chiêng
thiêng và tùy tiện sử dụng các bài bản. Trong các buôn làng ngày xưa, cồng
chiêng thường chỉ được sử dụng trong các lễ lớn của gia đình, dòng tộc hoặc
buôn làng thì nay, cũng ngay trong cái không gian buôn làng ấy, việc "mua
vui" cho "người ngoài" đã trở nên một hiện tượng không hiếm, nếu
như không muốn nói là khá phổ biến.
Chương trình
hành động quốc gia sau khi cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới sắp tới sẽ là một chương trình dài hơi và đòi hỏi cần được
đầu tư nhiều về vật chất và đặc biệt là trí tuệ. Nhưng với thực trạng như hiện
nay, việc triển khai chương trình sẽ rất nhiều khó khăn cần phải vượt qua.
|
"Cồng chiêng vẫn ở trong tay người
dân, tức là vẫn của cộng đồng, là tài sản của toàn dân chứ không bó hẹp của
tầng lớp quý tộc như các nước khác".
Nhiều quốc gia Đông Nam
Á có cồng chiêng, nhưng chỉ có Cồng chiêng Tây Nguyên (CCTN) được UNESCO công
nhận, điều này chứng minh giá trị văn hoá phi vật thể của loại nhạc cụ này
trong dòng chảy văn hoá nhân loại.
Cồng chiêng rất phổ biến
ở Đông Nam Á, thậm chí nó là một nét văn hoá có tính chất cơ tầng của khu vực
này. Nhưng nhiều nước đã biến văn hoá cồng chiêng của mình thành chuyên nghiệp
và cung đình, như Indonesia, Thái Lan, Malaixia, Mianma, Lào. Còn riêng ở VN, cồng
chiêng vẫn ở trong tay người dân, tức là vẫn của cộng đồng, là tài sản của toàn
dân chứ không bó hẹp của tầng lớp quý tộc như các nước khác. Thêm nữa, nghệ thuật
cồng chiêng gắn chặt với đời sống con người. Người ta có thể ví "cuộc đời
dài như tiếng chiêng". Rồi bất cứ hiện tượng hệ trọng nào đối với đời sống
đều có sự góp mặt của chiêng cồng.
Về kỹ thuật, ở các nước
khác, mỗi người đánh một chục cái chiêng, cả dàn chiêng. Nhưng riêng ở VN, mỗi
người đánh chỉ một chiêng. Và như thế dàn chiêng có bao nhiêu cái thì có bấy
nhiêu người. Điều đó chứng tỏ tính âm nhạc phổ biến đến từng người và để thực
hiện được một bài chiêng thì mỗi người tuy đánh một chiêng nhưng phải biết tất
cả các chiêng khác đánh thế nào! Thế là tài năng của toàn dân rồi! Tiếp nữa, ở
Indonesia, người ta ca ngợi rằng dàn cồng chiêng đưa ra được hai hàng âm thanh
(musical scales), gọi là slendro và pelog. Nhưng chúng ta không
giống thế. Chúng ta có một hệ âm thanh riêng và tôi đã đề nghị công nhận nó là
Musical scales of Vietnam Highlanders (Hàng âm thanh riêng của những người Tây
Nguyên VN). Ban thường vụ ICTM nghe tôi trình bày vậy, liền bảo: Được, thế thì
chúng tôi bỏ phiếu cho VN!
Tuy nhiên, có một thực
tế là hiện nay đồng bào theo đạo Tin Lành rất nhiều, nên không cần cồng chiêng
nữa. Vì vậy, ngày càng nhiều cồng chiêng bị bán làm sắt vụn, mà theo tôi biết
là chỉ có 3000 đồng/kg. Trong điều kiện tự do tôn giáo tín ngưỡng, thì đây trở
thành vấn đề rất phức tạp mà ngành văn hoá cũng không giải quyết được.
Bên cạnh đố là những yếu
tố tác động từ những cán bộ văn hoá quần chúng. Họ khăng khăng đòi cải tiến
chiêng, bằng cách bảo dân gò lại theo đúng như hàng âm thanh châu Âu - đồ rê
mi pha son... Thế thì tức là vứt đi hàng âm thanh mà tôi đã đề nghị thế giới
công nhận là của riêng VN (musical scales of Vietnam Highlanders). Bây giờ họ
cho hàng âm thanh đó là lỗi thời. Ở Gia-lai đã có những dàn chiêng bị gò lại để
đánh các bài mới và không thể đánh được các bài dân tộc nữa... Tôi cho rằng
trong chuyện này, người dân cũng không muốn, họ chỉ là nạn nhân thôi...
Có một thực tế hiện nay
là số cồng chiêng Tây Nguyên đã giảm đi đáng kể, đồng bào vì cái đói, cái nghèo
đã không thể giữ lại đồ vật quý bên mình. Để ngăn chặn việc chảy máu cồng
chiêng, điều cần nhất là phải xoá đói giảm nghèo cho họ, mà việc này thì VN đã
có thành tích làm rất tốt. Hai nữa, Nhà nước phải quan tâm và có những biện
pháp để có thể duy trì các sinh hoạt cồng chiêng trong các cộng đồng buôn làng
Tây Nguyên. Quan trọng nữa là tổ chức việc truyền dạy cho lớp trẻ; quảng bá
tuyên truyền giá trị của cồng chiêng.
Để văn hóa cồng chiêng
không bị mai một, nhiều người đã đề xuất ý tưởng phục hồi, xây dựng các xưởng
chế tác cồng chiêng phục vụ cho người dân tộc, việc này là thiết thực nhưng
từ xưa đến nay, chiêng mà đồng bào sử dụng không phải tự họ đúc
ra. Chiêng được mua từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, của người Kinh, dân tộc Lào,
Campuchia... Không bao giờ có cái chiêng mua sẵn có âm thanh đúng như người ta
cần, mà người Kinh có muốn cũng không thể làm thay họ được! Mỗi một hoặc vài
làng bản lại có một người chuyên lên chiêng (hay gọi là người chỉnh chiêng, tiếng
Banah là Tul Cheng), sửa để chiêng có một âm thanh đúng như mong muốn. Vậy thì
cần gì phải thay đổi nữa? Chỉ cần anh tiếp tục sản xuất nhiều, bán rẻ cho họ để
họ tự chỉnh.
|
Trong
số 43 di sản của 46 quốc gia được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và
di sản phi vật thể của nhân loại đợt 3 công bố ngày 25-11-2005, có không gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam.
Danh tiếng văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên từ nay đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành tài sản
của nhân loại. Những giá trị đặc sắc của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên, một bộ phận của di sản và tinh hoa văn hóa Việt Nam được cộng đồng quốc
tế biết đến và được tôn vinh. Di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
của Việt Nam đã hoàn toàn đáp ứng được những tiêu chuẩn của một Kiệt tác truyền
khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại do UNESCO đưa ra.
Giá trị nổi bật của
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là nơi đây chứa đựng những giá trị
sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Chủ nhân của Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên là đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Cư dân Tây
Nguyên không tự đúc được cồng chiêng, nhưng với đôi tai và tâm hồn âm nhạc nhạy
cảm họ đã nâng giá trị của một sản phẩm hàng hóa thành một nhạc cụ trình diễn
tuyệt vời. Trong tay các nghệ sĩ dân gian tài hoa ở cộng đồng, mỗi chiếc chiêng
giữ nhiệm vụ một nốt nhạc trong một dàn nhạc, để biểu diễn các bản nhạc chiêng
khác nhau. Ðồng thời, tùy theo từng dân tộc, họ đã sắp xếp, định biên thành các
dàn nhạc khác nhau.
Cồng chiêng Tây Nguyên
có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời. Từ xa xưa, cộng đồng
cư dân Tây Nguyên đã biết thổi hồn và tiếp thêm sức sống cho cồng chiêng Tây
Nguyên để những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa
quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người Tây Nguyên, sống mãi
cùng với đất trời và con người Tây Nguyên.
Cồng chiêng Tây Nguyên
giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng đồng và bản sắc văn hóa chung các
dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng tộc người trên mảnh đất muôn mầu, muôn sắc
Tây Nguyên. Mỗi dân tộc Tây Nguyên có một cách chơi chiêng khác nhau. Người dân
bình thường ở Tây Nguyên tuy không phải là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ
cần nghe tiếng chiêng là họ phân biệt được đó là dân tộc nào.
Âm nhạc của cồng chiêng
Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những
kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác. Từ việc chỉnh chiêng đến biên chế thành
dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn, những người dân trong các p'lei, p'lơi,
buôn, bon, v.v. dẫu không qua trường lớp đào tạo vẫn thể hiện được những cách
chơi điêu luyện tuyệt vời.
Cồng chiêng Tây Nguyên
là bằng chứng độc đáo, là nét đặc trưng của truyền thống văn hóa các dân tộc
Tây Nguyên. Nó là một loại hình sinh hoạt gắn liền với đời sống văn hóa, tinh
thần và tín ngưỡng của con người từ lúc được sinh ra cho đến khi trở về với đất
trời, với vũ trụ. Trong khi đa số các dân tộc ở Tây Nguyên, chơi chiêng phải là
nam giới, thì cũng có một số dân tộc phụ nữ là nghệ nhân trình diễn chiêng; đồng
thời phụ nữ tham gia múa cùng với nghệ nhân trình diễn chiêng. Ðiều ấy không chỉ
minh chứng cho truyền thống lâu đời của cồng chiêng Tây Nguyên mà còn cho thấy
tính độc đáo văn hóa của nó.
Cồng chiêng Tây Nguyên
đã gắn bó với cuộc sống của người dân Tây Nguyên từ ngàn đời nay, nhưng nay
đang đứng trước nguy cơ bị mai một rất cao do rất nhiều nguyên nhân. Trước hết,
đó là những nguyên nhân bắt nguồn từ những biến đổi hết sức lớn lao trong đời sống
vật chất và tinh thần của cư dân, cùng với những biến đổi của môi trường tự
nhiên và xã hội mà cư dân Tây Nguyên sinh sống. Như những sự thay đổi trong
phương thức canh tác; sự thay đổi trong mối quan hệ giữa con người với môi trường
tự nhiên và thiên nhiên Tây Nguyên; sự bùng nổ công nghệ thông tin, v.v. Những
sự biến đổi ấy dẫn đến sự thờ ơ của một bộ phận dân cư, nhất là trong lớp trẻ đối
với văn hóa cồng chiêng.
Ðã trở thành một kiệt
tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, bên cạnh niềm tự hào là một
trách nhiệm hết sức nặng nề và to lớn đặt lên vai chúng ta: Trách nhiệm bảo vệ
di sản văn hóa cho dân tộc và cho nhân loại - điều mà lâu nay nhiều người chưa
thấy hết. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên từ đây đặt ra những vấn đề
to lớn trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị của nó. Muốn làm tốt công việc
nặng nề mà vẻ vang ấy, chúng ta cần phải sớm bắt tay thực hiện hàng loạt công
việc có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Cùng với việc nâng cao
lòng tự hào, cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong việc giữ gìn,
bảo vệ giá trị của cồng chiêng, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Ðây không chỉ
là nguyên lý của khoa học bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, mà còn
là việc thực hiện chủ trương xã hội hóa văn hóa của Ðảng và Nhà nước ta. Văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên là sáng tạo của cộng đồng. Bao đời nay, cộng đồng
lưu giữ, trao truyền di sản văn hóa vô giá này. Nét đặc sắc của cồng chiêng Tây
Nguyên so với cồng chiêng của một số nước trong khu vực là cồng chiêng Tây
Nguyên chưa bị biến thành chuyên nghiệp hóa, vẫn tồn tại một đời sống dung dị
nơi p'lei, p'lơi, buôn, bon, v.v. của người Ba Na, Gia Rai, Ê Ðê, Mạ,
v.v. Hàng trăm, hàng nghìn năm nay, những thăng trầm lịch sử không tách cồng
chiêng ra khỏi đời sống cộng đồng. Ðặc điểm này của cồng chiêng Tây Nguyên vừa
là thuận lợi, đồng thời cũng vừa là khó khăn trong việc bảo tồn và phát huy giá
trị của Không gian văn hóa công chiêng Tây Nguyên. Vì thế, vấn đề nâng cao lòng
tự hào và ý thức giữ gìn của cộng đồng dân cư có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Cần phải đẩy mạnh công
tác sưu tầm, ghi chép những bài chiêng, những sinh hoạt văn hóa, âm nhạc gắn bó
với cồng chiêng. Ghi âm, ghi hình các tài liệu, tư liệu về cồng chiêng và văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên để lưu giữ, bảo quản và phát huy lâu dài.
Tiếp tục nghiên cứu
khoa học về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên một cách hệ thống và
toàn diện ở năm tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận.
Phục hồi và giữ gìn các
sinh hoạt văn hóa, các lễ hội gắn với vòng đời người và vòng đời cây trồng ở
các cộng đồng dân tộc thiểu số tại năm tỉnh Tây Nguyên để tạo môi trường diễn
xướng của cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng.
Từng bước xây dựng
Phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tại Trung tâm Dữ liệu Di sản
văn hóa (Viện Văn hóa - Thông tin) và tại Bảo tàng các tỉnh Tây Nguyên.
Xây dựng một chiến lược
dài hạn cho việc phục hồi, bảo tồn và phát huy di sản cồng chiêng và văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên. Ðẩy mạnh công tác đào tạo trong các trường nghệ thuật về cồng
chiêng và Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Tổ chức biểu diễn, giới
thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng, ở các trường học để nâng cao
trình độ thưởng thức của mọi tầng lớp nhân dân về cồng chiêng và văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên. Mở rộng công tác tuyên truyền đến khách du lịch trong nước
và nước ngoài để mọi người hiểu được một tài sản văn hóa phi vật thể vô giá
đang được lưu giữ tại Tây Nguyên.
Tăng cường hợp tác,
giao lưu văn hóa để quảng bá cồng chiêng trong phạm vi quốc gia và quốc tế, nhằm
xây dựng các chương trình nghiên cứu và phục hồi Không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên.
Được UNESCO công nhận
là Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là niềm tự hào của cả nước và đồng thời vấn đề bảo tồn,
phát huy giá trị của nó cũng lại là vấn đề không kém phần quan trọng và cũng là
nhiệm vụ của tất cả mọi người chúng ta. Làm tốt công việc ấy không chỉ có ý
nghĩa đối với hôm nay mà cả với mai sau.
Tiến sĩ PHẠM QUANG NGHỊ
Bộ trưởng Văn hóa -
Thông tin
|
Sự kiện Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và di
sản phi vật thể của nhân loại ngày 25-12, là một trong những sự kiện văn hóa nổi
bật nhất của năm 2005.
Không gian văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên chứa đựng những giá trị nổi bật ngang tầm kiệt tác sáng tạo của
nhân loại
Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất
phát từ một sản phẩm hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa
thành một nhạc cụ. Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của
nghệ nhân sửa chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về
chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Có hai
phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: Gõ, gò theo hình
vảy tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên
những điểm khác nhau quanh tâm điểm của từng chiếc chiêng là một phát hiện vật
lý đúng đắn, khoa học (mặc dù trình độ phát triển xã hội của người Tây Nguyên
thuở xưa chưa biết đến vật lý học). Đây là sáng tạo lớn của cư dân các dân tộc
ít người Tây Nguyên.
Để đáp ứng các yêu cầu
thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc người Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều
biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:
Dàn chiêng có 2 hay 3
chiếc: Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan niệm của nhiều tộc người Tây
Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2 chiêng bằng gọi là chiêng Tha, của
người Brâu; dàn 3 cồng núm của người Churu, Bana, Giarai, Gié-Triêng... cũng
thuộc loại này.
Dàn chiêng có 6 chiêng
phổ biến ở nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng bằng của người Mạ; dàn Stang của người
Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnông; dàn
chiêng Diek của nhóm Kpạ người Êđê. Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc
dân tộc Êđê. Dàn chiêng 6 chiếc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của
nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng của
nhóm Noong dân tộc Mnông.
Dàn chiêng 11 hoặc 12
chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng của các tộc người Giarai (ngành
Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh), người Xơđăng (ngành Steng).
Các dàn chiêng có biên
chế 3 chiêng trở lên thường có chiếc trống lớn và cặp chũm choẹ. Riêng dàn 3 cồng
núm của người Churu thì phải có chiếc khèn 6 âm phối hợp.
Hầu hết các nghệ nhân
đánh cồng chiêng ở Tây Nguyên là nam giới, kể cả hai tộc người Êđê, Giarai đang
duy trì chế độ mẫu hệ hoặc người Bana, Xơđăng đang duy trì cả chế độ mẫu hệ lẫn
chế độ phụ hệ. Riêng ở ngành Bih tộc người Êđê, chỉ nữ giới mới được đánh cồng,
ở người Mạ thì cả hai giới đều được đánh chiêng nhưng thường chia làm 2 dàn:
Dàn chiêng nam, dàn chiêng nữ. Ngày nay, đã có dàn chiêng hỗn hợp các nghệ nhân
cả nam lẫn nữ. Việc nữ giới đánh chiêng cho thấy vị trí xã hội và vai trò quan
trọng của họ trong tâm thức các tộc người này.
Ngoài ra, ở nhiều tộc
người như Churu, Xơđăng, Mnông và đặc biệt tộc người Giarai, Bana, phụ nữ (nhất
là các cô gái trẻ) làm thành một dàn múa đồng hành với bản nhạc chiêng. Điều
đáng nói là các điệu múa này được coi là thành tố không thể thiếu của việc diễn
tấu các bài cồng chiêng (không được dùng bên ngoài diễn tấu cồng chiêng
hoặc trình diễn giải trí). Nói cách khác, sinh hoạt văn hoá cồng chiêng của các
dân tộc ở Tây Nguyên là sinh hoạt cộng đồng, cuốn hút tất cả các thành viên
tham gia. Đây là bằng chứng chứng tỏ lịch sử lâu đời của cồng chiêng và sinh hoạt
văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.
Cồng chiêng là một nhạc
cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng chiêng trước hết là sự đáp ứng cho yêu cầu của mỗi
lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Như thế, mỗi nghi lễ
có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng. Trong mỗi nghi lễ, lại có thể có nhiều
công đoạn có nhạc chiêng riêng: Người ngành Aráp dân tộc Giarai ở vùng Ea H’Leo
tỉnh Đắc Lắc có các bài nhạc chiêng cho các lễ đâm trâu, khóc người chết trong
tang lễ, mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng, lễ xuống giống, lễ cầu an cho
lúa, mùa gặt... Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng
như: Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khoẻ...
Các bài chiêng cũng đạt
đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng thái tình cảm của con người
trong mỗi nghi lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn; chiêng
mùa gặt thì thánh thót, vui tươi; chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã...
Có thể nói, văn hoá và
âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện tài năng sáng tạo mang tầm kiệt tác của
nhân loại. Cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng của các dân tộc ở Tây
Nguyên rất đa dạng, nhưng thống nhất. Đây chính là đặc điểm rất cơ bản của vùng
văn hoá Tây Nguyên và cũng là đặc điểm của văn hoá Việt Nam.
Văn hoá cồng chiêng Tây
Nguyên bắt rễ từ truyền thống văn hoá và truyền thống lịch sử của cộng đồng có
liên quan
Từ cơ tầng văn hoá Đông Nam Á thời tiền sử, vào khoảng cuối
nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, trên đất nước Việt Nam ngày
nay đã hình thành và phát triển 3 trung tâm văn hoá lớn thuộc thời đại đồ đồng
(Bronze Age): Văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc; văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung; văn
hoá Đồng Nai ở Nam Bộ. Các cộng đồng dân cư của 3 trung tâm này có những mối
giao lưu văn hóa thường xuyên và nhiều chiều với nhau. Cả 3 trung tâm đều có kỹ
nghệ đúc đồng đặc biệt phát triển, sáng tạo nên những công cụ, vũ khí, đồ trang
sức, đặc biệt là các loại nhạc cụ bằng đồng rất độc đáo. Các hiện vật khảo cổ của
văn hoá Đông Sơn như trống đồng, cây đèn Lạch Trường có những hình chạm khắc
cách chơi các loại nhạc cụ đó.
Khu vực Tây Nguyên hiện
nay nằm trong các tuyến văn hoá truyền thống giao thoa và phát triển của 3
trung tâm đó, đồng thời cũng nằm trong bối cảnh chung của khu vực Đông Nam Á.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy di chỉ khảo cổ Lung Leng (tỉnh Kon Tum), cũng như ở
các di chỉ khảo cổ khác tại Tây Nguyên nhiều hiện vật đồ đồng, đồ sắt, nhất là
khuôn đúc rìu đồng (Nguyễn Khắc Sử, Thông báo khảo cổ học, 2004). Điều đó có
nghĩa là, cư dân cổ xưa ở Tây Nguyên đã từng có một kỹ nghệ đúc đồng, một nền
văn hoá thời kim khí.
Điều đáng nói là tất cả
các nhạc cụ trên, nhất là cồng chiêng, đều tiếp tục được sử dụng và tồn tại đến
ngày nay như một thành tố hữu cơ trong nền âm nhạc của các dân tộc Việt Nam, dù
là họ sinh sống ở phía Bắc hay ở duyên hải miền Trung.
Cồng chiêng đóng vai
trò là phương tiện khẳng định cộng đồng và bản sắc văn hoá dân tộc của cộng đồng
các dân tộc ít người ở Tây Nguyên
Di sản văn hoá của các
thế hệ tộc người ở Tây Nguyên gồm: Kho tàng ngữ văn dân gian, nghệ thuật điêu
khắc dân gian, tri thức dân gian, nhưng nổi trội nhất là sử thi và cồng chiêng.
Người dân nơi đây có cồng chiêng để ứng xử với thiên nhiên, cầu xin, giãi bày với
thần linh, tổ tiên, đối thoại với cộng đồng và với chính mình. Khó có nhạc khí
nào, sinh hoạt văn hoá nào lại có nhiều vai trò đến vậy. Với các dân tộc ít người
ở Tây Nguyên, phương tiện để khẳng định cộng đồng và bản sắc cộng đồng là cồng
chiêng và văn hoá cồng chiêng.
Mỗi dân tộc ở Tây
Nguyên có một cách tổ chức dàn cồng chiêng khác nhau, cách chơi cũng khác nhau.
Có ít nhất 3 phong cách âm nhạc lớn của cồng chiêng Tây Nguyên: Cồng chiêng Êđê
nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồng chiêng Mnông cường độ
không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana - Giarai thiên về tính chất
chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên âm sắc vững chãi, hùng tráng, một
bè giai điệu thánh thót của chiêng không có núm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót).
Bản sắc văn hoá các dân
tộc ít người Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất trong cồng chiêng và sinh hoạt văn
hoá cồng chiêng. Tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật tạo hình, múa dân gian và ẩm thực
dân gian... đều thể hiện, gắn bó mật thiết với cồng chiêng (các tượng tròn ở
nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên chỉ trở nên đẹp hơn với ngày lễ bỏ mả trong một
không gian huyền ảo đầy những tiếng cồng chiêng sâu lắng).
Với các dân tộc Tây
Nguyên, phương tiện để nối kết cộng đồng cũng lại là cồng chiêng. Tiếng cồng
chiêng vang lên để nối kết cá thể với cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng
khác của cùng một dân tộc. Điều đáng lưu ý là Tây Nguyên có nhiều dân tộc,
nhưng các dân tộc luôn hoà hợp lẫn nhau trong văn hoá cồng chiêng mà vẫn giữ được
bản sắc văn hoá của dân tộc mình, không có hiện tượng loại trừ hay đồng hoá văn
hoá của nhau trong sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Các dân tộc đều có thể đến với
nhau khi sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm
xúc rạo rực khó tả trong mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ
tìm đến với nhau.
Cư dân các dân tộc ít
người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểu biết sâu và có các kỹ thuật điêu luyện
trong việc sử dụng cồng chiêng trong văn hoá và âm nhạc của mình
Điều này thể hiện ở việc
chỉnh âm chiêng mua về với tư cách là một hàng hoá để nó trở thành một nhạc cụ
trong dàn cồng chiêng của dân tộc; thể hiện ở việc lựa chọn các biên chế dàn
chiêng, ở việc quy định giới tính, tư thế và kỹ xảo diễn tấu. Ngoài ra, họ còn
sáng tác nhiều bản nhạc chiêng cho những công dụng khác nhau.
Cồng chiêng Tây Nguyên
có giá trị như một bằng chứng độc đáo của đặc trưng truyền thống văn hoá
Cồng chiêng có mặt
trong nền văn hoá của nhiều nước trên thế giới (nhất là châu Á). Tuy nhiên, dạng
cồng chiêng được tổ chức thành dàn để diễn tấu độc lập hoặc kết hợp với các nhạc
cụ khác thì chủ yếu thấy ở các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, hầu như tất cả các
tộc người đều sử dụng cồng chiêng. Nhưng các dân tộc thường chỉ dùng 1-2 cồng
phối hợp với một trống dùng trong nghi lễ hoặc giữ nhịp cho múa. Người Mường ở
các tỉnh miền núi phía Bắc có dàn cồng sắc bùa, bao gồm một biên chế 8-12 chiếc
cồng núm. Biên chế chiêng thành dàn là đặc trưng trong văn hoá của các tộc người
Tây Nguyên.
Các dàn cồng chiêng Tây
Nguyên có nhiều điểm tương đồng với cồng chiêng Đông Nam Á. Tuy vậy, nó có những
nét khác biệt: Văn hoá và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là văn hoá và âm nhạc
dân gian. Nó là sở hữu cộng đồng, là chuẩn mực văn hoá cho thành viên cộng đồng
thực hiện. Ở những tộc người mà cồng chiêng dành riêng cho nam giới thì mọi
chàng trai tộc người đó phải biết đánh chiêng. Ở những tộc người, nơi cồng
chiêng do nữ giới đảm nhiệm thì mọi cô gái phải biết thực hiện nhiệm vụ này (ở
nhóm Noong dân tộc Mnông thì đó là nhiệm vụ của cả nam lẫn nữ). Là sở hữu của cộng
đồng, cồng chiêng Tây Nguyên có vai trò như một biểu tượng cho năng lực sáng tạo
văn hoá, âm nhạc của người dân trong không gian văn hoá Tây Nguyên. Cho đến
nay, cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá gắn bó với cồng chiêng vẫn tồn tại trong
từng gia đình, p’lei, bon, buôn. Trong khi ở một số nước Đông Nam Á, cồng
chiêng hầu như đã trở thành hoạt động âm nhạc có tính chuyên nghiệp như các dàn
Gamelan của Inđônêxia, dàn Khong wong trong Mahori của Thái Lan, trong Pin Peat
của Campuchia. Đặc điểm này cho thấy cồng chiêng Tây Nguyên có thể còn lưu giữ
nhiều yếu tố cổ xưa hơn.
Văn hoá cồng chiêng Tây
Nguyên đang đứng trước nguy cơ của sự mai một
Trước hết là sự suy giảm
nhanh chóng về số lượng các dàn cồng chiêng. Theo thống kê của Sở Văn hoá Thông
tin Gia Lai, trước năm 1980 trong các p’lei/p’lơi của người Giarai, Bana trong
tỉnh có hàng chục ngàn bộ cồng chiêng. Có gia đình sở hữu 2-3 bộ, mỗi p’lei có
hàng chục bộ. Đến năm 1999, cả tỉnh có 900 p’lei và chỉ còn 5.117 bộ, năm 2002
còn lại chưa đến 3.000 bộ. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 3.113 bộ. Từ năm 1982 đến
1992, tỉnh Đắc Lắc đã mất 5.325 bộ chiêng, từ năm 1993 đến 2003 lại mất tiếp
850 bộ, hiện tại cả tỉnh chỉ còn 3.825 bộ cồng chiêng.
Nguy cơ mai một cồng
chiêng còn thể hiện ở các bài bản nhạc chiêng dần dần bị lãng quên. Các nghệ
nhân trải qua thời gian, do nhiều tác động khác nhau đã quên nhiều bản nhạc
chiêng. Người Mnông trước đây có 40 bản nhạc chiêng, nay các nghệ nhân chỉ còn
nhớ, lưu truyền và trình diễn được 10 bản nhạc chiêng. Mặt khác, những nghệ
nhân có đôi tai thẩm âm, có năng khiếu trong việc chỉnh chiêng cũng thưa vắng dần
trong các cộng đồng cư dân.
Đáng tiếc nhất là khi
những người già, những nghệ nhân Tây Nguyên chết đi đã mang theo cả kho tàng di
sản văn hoá cồng chiêng mà không dễ dàng tạo dựng và khôi phục được. Sự đứt gãy
dòng chảy của văn hoá truyền thống dẫn đến sự thờ ơ, hờ hững của lớp trẻ với
văn hoá của các thế hệ tiền nhân, trong đó có văn hoá âm nhạc cồng chiêng.
Trở thành kiệt tác truyển
khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây
Nguyên đặt ra những vấn đề cấp thiết trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị của
nó. Bài toán bảo tồn sẽ cực kỳ phức tạp, vất vả. Vì, khác với Nhã nhạc cung
đình Huế, là một hiện tượng văn hóa, để bảo tồn chúng ta chỉ cần đầu tư cho
công tác nghiên cứu và phát triển nghệ nhân biểu diễn, cồng chiêng không chỉ là
nghệ thuật biểu diễn đơn thuần, mà gắn bó chặt chẽ với nghi lễ, với đời sống hằng
ngày, với chính không gian của vùng đất ấy. Vì vậy, cần có một chương trình tổng
thể, quy mô cho công việc này. Trước mắt, cần đẩy mạnh công tác sưu tầm, ghi
chép và nghiên cứu một cách bài bản, hệ thống về cồng chiêng và văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên. Tiến hành phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa để tạo
môi trường diễn xướng của sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trên quan điểm kế thừa
có chọn lọc. Từng bước xây dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên tại Trung tâm Dữ liệu Di sản văn hóa (Viện Văn hóa-Thông tin) và tại các
bảo tàng tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Ðác Lắc, Ðác Nông và Lâm Ðồng. Ðồng thời có kế
hoạch đào tạo dài hạn, cơ bản đội ngũ cán bộ khoa học am hiểu về âm nhạc truyền
thống, văn hóa, lịch sử Tây Nguyên, chú trọng đào tạo cán bộ là người dân tộc
thiểu số. Mở lớp truyền dạy kinh nghiệm đánh chiêng, chỉnh chiêng tại cộng đồng.
Muốn làm tốt công việc
này cần phải xác định một số định hướng như sau:
Cần có một chương trình
nghiên cứu khoa học cho Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên với 3 nhóm
công việc: Sưu tầm và nghiên cứu; bảo tồn và phục hồi; truyền dạy và quảng bá.
Trước mắt, phải chặn đứng nạn "chảy máu" cồng chiêng, tiến hành bảo tồn
tĩnh lẫn bảo tồn động đối với di sản văn hoá này, tiến hành đào tạo đội ngũ cán
bộ nghiên cứu là người dân tộc ít người tại địa phương.
Bản chất của cồng
chiêng Tây Nguyên là sáng tạo của cộng đồng và cũng chính cộng đồng bảo tồn,
lưu giữ, trao truyền nó. Vì vậy, phát huy vai trò của cộng đồng phải là yêu cầu
có tính nguyên tắc trong hệ thống các công việc trên.
Xử lý thoả đáng, biện
chứng quan hệ giữa hai phạm trù "bảo tồn và phát huy" đối với hàng loạt
vấn đề đặt ra của đời sống hàng ngày trong Không gian văn hoá cồng chiêng Tây
Nguyên. Muốn bảo tồn cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng, phải giữ gìn, khôi phục
các sinh hoạt văn hoá - tín ngưỡng liên quan đến cồng chiêng, trong đó không nhất
thiết phải kế thừa y nguyên (không nên đưa cồng chiêng thành đoàn văn công
chuyên nghiệp, sân khấu hoá việc trình diễn cồng chiêng).
Khai thác tiềm năng
kinh tế của kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể này nhưng không phá vỡ
hay làm tăng thêm nguy cơ mai một của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên. Là một sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại, Không gian văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên có khả năng hấp dẫn, thu hút khách du lịch. Đây cũng là cơ hội
tốt để tuyên truyền, quảng bá về giá trị của di sản: Tạo ra các tour du lịch,
đưa khách du lịch đến xem, nghe trình diễn cồng chiêng tại cộng đồng, in ấn, xuất
bản những sản phẩm như sách, băng đĩa, tờ rơi... để khai thác tiềm năng kinh tế
của di sản, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bảo vệ sự bền vững
của kiệt tác này cũng là yêu cầu đặt ra và là cam kết của chúng ta với cộng đồng
thế giới.
Những nỗ lực đưa Không
gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hoá Phi vật thể của nhân loại
đã được đền bù xứng đáng.
Việc chuẩn bị hồ sơ
trình UNESCO là công việc rất vất vả, khó khăn. Trong đợt xét duyệt đầu tiên
(2001), Việt Nam đã đệ trình hai hồ sơ là múa rối nước và hát chèo tàu, nhưng
do chưa có kinh nghiệm nên di sản chưa được công nhận. Ðối với Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên, chúng ta chưa có sự nghiên cứu toàn diện, các nhà
khoa học nước ngoài cũng chưa có chuyên luận nào. Ðịa bàn của không gian văn
hóa cồng chiêng lại trải rộng trên năm tỉnh, với 11 dân tộc. Mà thời gian để
chuẩn bị hồ sơ lại không nhiều, chỉ vỏn vẹn có sáu tháng. Vấn đề quan trọng là
phải xây dựng bộ hồ sơ theo đúng mẫu của UNESCO, gồm: các băng video 120p, 40p,
10p; một bộ ảnh (kèm phim âm bản, phim dương bản); 1 băng ghi âm, 1 báo cáo
khoa học đánh giá di sản và chương trình hành động để phục hồi, bảo tồn và phát
huy giá trị di sản; 1 thư mục nghiên cứu về di sản; cam kết và thỏa thuận của cộng
đồng và cơ quan quản lý, ngoài ra là các tài liệu tham khảo như sơ đồ, các công
trình nghiên cứu, giới thiệu về di sản..., tất cả đều phải được dịch và giới
thiệu bằng tiếng Anh. Ðể xây dựng hoàn chỉnh hồ sơ về cồng chiêng, ngoài
các tư liệu lưu trữ sẵn có, cán bộ của Viện đã phải chia thành nhiều bộ phận,
phụ trách những phần việc khác nhau như đi điền dã, biên tập, dịch thuật, lồng
tiếng...
Với danh nghĩa là nghệ
thuật biểu diễn của từng dân tộc thì cồng chiêng cũng đã có mặt trong một số
ngày hội của quốc gia, đã từng đi trình diễn ở nước ngoài, nhưng với tư cách là
cồng chiêng Tây Nguyên, thì chuyện lại không đơn giản. Sau lễ công bố danh hiệu,
đã có lời mời đưa cồng chiêng đi biểu diễn ở nước ngoài, Bộ Văn hóa - Thông tin
đã đồng ý trên nguyên tắc, nhưng phương thức tiến hành thì chúng tôi đang phải
cân nhắc. Cần nhấn mạnh đây là một không gian văn hóa, vì vậy, khi giới thiệu,
nhất là ra quốc tế, cần hết sức thận trọng. Tôi không đồng ý quan điểm sân khấu
hóa nghệ thuật cồng chiêng. Chúng ta đã có bài học đau xót từ việc sân khấu
hóa, chuyên nghiệp hóa quan họ Bắc Ninh. Với cồng chiêng, tất nhiên sẽ phải có
hình thức quảng bá cho giá trị độc đáo của Di sản, nhưng làm thế nào, thì cần
có sự bàn soạn và đồng thuận của các nhà khoa học, và nhất là các cộng đồng
làng, những chủ thể trực tiếp của Di sản.
Tìm giải pháp để
đưa các đoàn nghệ nhân đi biểu diễn và xây dựng một số buôn làng thành điểm du
lịch, với đầy đủ một không gian sinh hoạt và diễn xướng cồng chiêng. Sắp tới, Bộ
Văn hóa- Thông tin sẽ tiến hành xây dựng một trung tâm bảo tồn và phát triển di
sản văn hóa phi vật thể tại TP Hồ Chí Minh, hy vọng sẽ kéo gần một không gian
văn hóa đến với đông đảo nhân dân. Hiện nay, chúng tôi đang xây dựng kịch bản
cho lễ đón bằng công nhận Kiệt tác truyền khẩu và Di sản phi vật thể nhân loại,
dự kiến sẽ tổ chức thành một liên hoan cồng chiêng tại Tây Nguyên, khoảng cuối
tháng giêng năm Bính Tuất. Bởi vì nếu làm không khéo thì sẽ tăng nguy cơ mai một
vốn truyền thống. Ðược trao danh hiệu là niềm tự hào lớn, nhưng cũng đừng nghĩ
rằng điều đó là vĩnh viễn. Cứ hai năm một lần, UNESCO tiến hành xem xét lại các
di sản được trao danh hiệu, và giám sát quá trình thực hiện các cam kết bảo tồn,
nếu không làm tốt, có thể bị tước danh hiệu.
Thế hệ hôm nay tràn đầy
niềm tự hào bởi trong 90 di sản của các nước trên thế giới được UNESCO công nhận
là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, Việt Nam có Nhã nhạc
cung đình Huế và Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Niềm tự hào này cũng
đặt trên vai chúng ta trách nhiệm phải bảo vệ, giữ gìn các di sản này cho hôm
nay và mai sau.
PGS, TS NGUYYỄN CHÍ BỀN
|
Ngày 25-11-2005, Văn hóa
Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận là kiệt
tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Sau Nhã nhạc Cung đình
Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam
được tôn vinh là di sản của thế giới. Điều đó khẳng định Việt Nam là một đất
nước có bề dày truyền thống văn hóa, có nhiều nghệ thuật truyền thống cần được
bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk
Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân
tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... Cồng chiêng
gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh,
tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao
động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Cồng chiêng
Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời. Về cội
nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là "hậu duệ" của đàn
đá. trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá,
chiêng đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng... Từ thuở sơ
khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín
ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... âm thanh khi ngân nga sâu
lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng
lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ
hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước,
lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe
khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng
nối liền, kết dính những thế hệ.
Theo quan niệm
của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần.
Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài
sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc
chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngày hội, hình ảnh
những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong
tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng
mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng
thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
Cồng chiêng đã
đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn của loại nhạc cụ
này: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh
nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ. Đánh cho
tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua nhà vọng
lên trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải ngã xuống
đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con người. Đánh cho chuột sóc
quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho hươu nai đứng
nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San...”.
Tồn tại trên
mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ đã hàng ngàn đời nay, nghệ thuật cồng chiêng ở đây
đã phát triển đến một trình độ cao. Cồng chiêng Tây Nguyên rất đa dạng, phong
phú.
Hiện nay, tại
hầu hết các buôn làng Tây Nguyên đều có những đội cồng chiêng phục vụ đồng bào
trong sinh hoạt cộng đồng, trong dịp hội hè. Vào ngày lễ tết, hình ảnh quen
thuộc ''bên ngọn lửa thiêng, những vòng người say sưa múa hát trong tiếng cồng
chiêng vang động núi rừng'' lại xuất hiện trên khắp các buôn làng. Các nghệ
nhân dân gian diễn tấu cồng chiêng kết hợp với nhau rất hài hòa, tạo nên những
bản nhạc với các tiết tấu, hòa thanh rất phong phú, mang sắc thái riêng với
muôn vàn cung bậc. Mỗi dân tộc đều có những bản nhạc cồng chiêng riêng để diễn
tả vẻ đẹp thiên nhiên, khát vọng của con người... Người Giarai có các bài
chiêng Juan, Trum vang... Người Bana có các bài chiêng: Xa Trăng, Sakapo, Atâu,
Tơrơi... Âm thanh của cồng chiêng còn là chất men lôi cuốn gái trai vào
những điệu múa hào hứng của cả cộng đồng trong những ngày hội của buôn làng.
Đây là sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật nhất ở nhiều dân tộc Tây Nguyên.
Âm nhạc của
cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc
áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác. Từ việc chỉnh chiêng đến
biên chế thành dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn, những người dân dẫu không
qua trường lớp đào tạo vẫn thể hiện được những cách chơi điêu luyện tuyệt
vời. Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản
vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên không những là một giá trị nghệ thuật đã
từ lâu được khẳng định trong đời sống xã hội mà còn là kết tinh của hồn thiêng
sông núi qua bao thế hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa về mặt vật
chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là "tiếng nói"
của con người và của thần linh theo quan niệm "vạn vật hữu linh".
Mỗi một dàn cồng
chiêng là tiếng nói tâm linh, tâm hồn của người Tây Nguyên, để diễn tả những niềm
vui, nỗi buồn trong cuộc sống lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Các tộc
người ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những bản
nhạc của riêng dân tộc mình. Trải qua bao năm tháng, cồng chiêng đã trở thành
nét văn hoá đặc trưng, đầy sức quyến rũ. Cồng chiêng chính là cuộc sống của người
Tây Nguyên. Nghe cồng chiêng thì thấy được cả không gian săn bắn, không gian
làm rẫy, không gian lễ hội... Tây Nguyên.
Mỗi dân tộc,
mỗi vùng miền lại có những đặc trưng riêng của cồng chiêng. Cồng chiêng có thể
được dùng đơn lẻ, hoặc dùng theo dàn, theo bộ từ 2 đến 12 chiếc, cũng có bộ 18
đến 20 chiếc như bộ chiêng của người Giarai. Dàn cồng chiêng Tây Nguyên được tổ
chức như một dàn nhạc có thể diễn tấu những bản nhạc đa âm với các hình thức
hòa điệu khác nhau. Điều đặc biệt trong dàn nhạc này mỗi người chỉ đánh một
chiếc cồng, hoặc chiêng (cồng là loại có núm, chiêng không có núm).
Trong lễ công
bố Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân
loại, ông Koichiro Matsuura - Tổng Giám đốc UNESCO đã phát biểu: “Tôi đã
được thưởng thức loại hình âm nhạc cồng chiêng rất riêng của Việt Nam và cũng
được thấy những nhạc cụ rất độc đáo trong dàn nhạc cồng chiêng của các dân tộc
Tây Nguyên. Đây là nét văn hóa truyền thống rất riêng của Việt Nam, rất tuyệt
vời và đặc sắc. Việc công nhân Danh hiệu Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại đối với Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là rất xứng
đáng”.
|
|
Tim kiem nang cao tren
gogle: "giao duc" nam OR 2013 "giao duc mam non " --tâm -lí
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét